Mục lục nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
Đọc là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học.
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo… từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác.
Mặt khác, nếu ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá – giỏi.
Hơn nữa trong năm học 2020-2021 này đang áp dụng chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học và dạy học phát triển năng lực của HS. Dạy học được coi như là con đường cơ bản phát triển năng lực HS Tiểu học, các năng lực chung được phát triển cho HS trong quá trình dạy học tập đọc. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn đọc đúng cho học sinh lớp Một”. Ngoài ra hãy tham khảo thêm mẫu sáng kiến kinh nghiệm lớp 1: luyện viết chữ đẹp nhé. Đây là sản phẩm chúng tôi nghiên cứu và biên soạn theo chương trình giáo dục mới hiện hành.
Thời gian, địa điểm
Trong phạm vi Trường tiểu học……. Học sinh lớp 1.. năm học 2020- 2021. Từ tháng 9/2020 đến tháng 5/2021.
Mục đích nghiên cứu
Tìm ra các biện pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc to rõ ràng,…………………HS phát triển được năng lực đọc một cách tốt nhất và đồng đều nhất.
Đóng góp thực tiễn
Kỹ năng đọc đóng một vai trò rất quan trọng đối với học sinh, nó là chìa khóa là điều kiện để học tốt các môn học khác. Khi các em đọc sai sẽ dẫn đến hiểu sai nội dung văn bản. Đọc đúng, đọc tốt khi lên lớp trên các em sẽ học vững vàng và học tốt hơn, đồng thời cũng giúp các em thích đọc sách báo, truyện để các em phát triển tư duy, cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được các lệnh, các yêu cầu khác trong các môn học khác, hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Hơn nữa đọc tốt giúp các em có thể phát triển khả năng tự học của bản thân rất tốt, có thể tự học tự nghiên cứu bài, tự rút ra cho bản thân những kinh nghiệm từ việc đọc. Kết hợp với việc các em học sẽ rất tốt những môn học khác. Tư duy của các em nhờ vào việc đọc tốt cũng dần hoàn thiện và nâng cao, nhờ có tư duy mà các em tự tìm tòi, phát hiện, tự làm giàu vốn kiến thức của mình, tự vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, làm chủ được bản thân trong môi trường cuộc sống đa dạng. Nhờ đó các em phát triển các năng lực đa dạng…
NỘI DUNG
Chương 1: Chương tổng quan
Cơ sở lý luận
Cơ sở tâm lý học
Đi học lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ, hoạt động vui chơi, ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới, hoạt động học tập với đầy đủ ý nghĩa của từ này. Các em trở thành những “cậu học sinh”, những “cô học sinh”, có một “địa vị” mới trong gia đình và ngoài xã hội .Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở độ 6 – 7 tuổi khả năng phân tích, tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ. Trẻ thích được giao tiếp với bạn bè thích được học hỏi từ thầy cô và từ những bài học sâu sắc. Vậy để có thể tiến tới mục tiêu đó thì HS lớp Một những mầm non tương lai của đất nước lúc nào cũng được chú trọng. Tham khảo thêm bản mềm vở luyện chữ đẹp nét cơ bản. Để bổ trợ thêm phần sáng kiến kinh nghiệm này nhé.
Việc đầu tiên khi mới làm quen với con chữ các em đã được nhận biết mặt chữ, các âm vần để có thể phát ra từng tiếng. Sự hình thành năng lực của các em dựa vào rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố khởi điểm là kỹ năng đọc tốt của các em. Các năng lực chung và đặc thù cần được phát triển đồng thời qua quá trình dạy học tập đọc.
Cơ sở ngôn ngữ học của việc rèn kỹ năng đọc
Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv…
Giáo viên cần chú trọng phương pháp dạy học phát triển. Các năng lực chung và đặc thù cần được phát triển đồng thời qua quá trình dạy học tập đọc mà không thể tách rời nhau. Trong đó các năng lực chung đóng vai trò then chốt trong việc phát triển các năng lực đặc thù, còn kỹ năng đọc là cơ sở hỗ trợ việc phát triển năng lực chung.
Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
Cơ sở nghiên cứu
Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1 bộ sách …………………………., Các Tham Luận dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Một. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1. Các ấn phẩm: Để học tốt, dạy tốt môn tiếng việt lớp Một. Phần mềm dạy học Tiếng Việt 1. Sách báo, Các loại sách tham khảo, Bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . .
Cơ sở thực tiễn
Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng giữ một vị trí quan trọng đối với cấp Tiểu học. Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục tình cảm, yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương. Với mỗi bài tập đọc, việc rèn cho học sinh đọc tốt các văn bản sẽ có tác dụng giúp các em sẽ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài đọc tức là đã góp phần giúp các em biết cảm thụ văn học được tốt hơn.
Trong quá trình dạy tiếng mẹ đẻ, việc đọc đúng, đọc hay sẽ góp phần hình thành nhân cách con người mới phù hợp với thời đại, hình thành cho các em tình yêu quê hương đất nước và là phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mĩ. Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về tri thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần thiết cho mỗi người.
Từ thực tế giảng dạy nhiều năm khối lớp 5, cũng như qua việc thăm lớp dự giờ môn tập đọc tôi thấy các em học sinh đều đã biết đọc nhưng nhiều em đọc còn nhỏ, ấp úng, sai lỗi phát âm, chưa biết ngắt nghỉ khi đọc câu văn, phân biệt giọng đọc giữa các nhân vật chưa tốt, chưa thể hiện được tình cảm của mình qua bài đọc.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh đọc tốt và để đọc tốt học sinh phải nắm được kiến thức cơ bản ngay từ lớp Một.
Như chúng ta đã biết “Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người” (Lê Nin), “Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác).
Ngôn ngữ là là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ năng đọc trong phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường.
Có đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh lớp Một chỉ được công nhận khi các em biết đọc chữ.
Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng, môn Tiếng Việt ở Tiểu học rèn luyện cho học sinh cả bốn kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết song mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp Một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng. Ngoài ra còn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở các lớp trên.
Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu
Thực trạng của trường lớp.
Thuận lợi
Giáo viên
Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học vv… cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn, cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.
Học sinh và phụ huynh
Ở độ 6-7 tuổi của học sinh lớp 1. Các em học sinh đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv….
Một số phụ huynh ý thức được tầm quan trọng của bố mẹ trong việc quán xuyến các em học tập ở nhà vì vậy rất quan tâm đến việc học tập của con em mình, có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường, cho giáo viên. Việc các bậc phụ huynh chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở đã tạo điều kiện cho các em học tập trên lớp cũng như ở nhà đạt được hiệu quả tốt hơn.
Khó khăn
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:
Giáo viên
Đổi mới phương pháp dạy học phát triển năng lực học cho HS, GV được tập huấn chưa nhiều. Áp dụng bộ SGK mới ………………………………………….GV chưa được tiếp cận nhiều do vậy phải mất thời gian nghiên cứu để giảng dạy đạt hiệu quả cao. Nâng cao chất lượng đọc cho HS, giúp HS đọc đúng là một nỗi trăn trở rất lâu của GV đối với HS lớp 1.
Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư.
Đèn chiếu, máy tính, trang bị trong phòng học chưa có, mỗi lần dạy phải kết nối mất nhiều thời gian.
Học sinh và phụ huynh
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
Do đặc trưng vùng miền nên các em chủ yếu phát âm sai l/n, r/d, ch/tr vv…
Đa số phụ huynh trong lớp là dân làm vườn không, chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
Một số trường hợp học sinh do nhà ở xa phải tam trú trên địa bàn nơi trường đóng, cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho người trông nom và nhà trường nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
Các biện pháp thực hiện
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau:
Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm
Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo.
Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và kết quả điều tra năm thu được như sau:
Tình hình học sinh:
Lớp Một sĩ số: ….. học sinh
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
Học sinh không biết chữ cái nào: ….. em
Biết 6 – 10 chữ cái: ….. em
Nhận biết hết bảng chữ cái: ….. em
Nhận biết âm hai chữ cái: ….. em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa có ý thức tự giác cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh, tôi đã đưa ra một số biện pháp cụ thể
Biện pháp
Giải pháp 1: Rèn luyện phát âm cho học sinh
Kỹ năng đọc đúng là mục tiêu khi dạy đọc cần phải hướng tới. Đọc đúng trước hết là đọc đúng chính âm, giải quyết vấn đề về phương ngữ. Đọc đúng là quan trọng nhất, đòi hỏi giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng hướng dẫn tốt và giáo viên phải chú ý quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong lớp. Giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại đối với các em phát âm sai vì các em đó rất ngại đọc, sợ các bạn chê cười, chế nhạo nên giáo viên phải giải tỏa được tâm lý cho các em bằng những lời khen, lời động viên dù nhỏ. Đồng thời giáo viên phải giải thích cho các em khác cùng hiểu, thông cảm, chia sẻ và giúp đỡ bạn đọc tốt hơn. Tham khảo sản phẩm bút mài Ánh Dương của chúng tôi để có những phương pháp luyện viết tốt nhất nhé.
Mục tiêu của việc rèn phát âm chuẩn cho học sinh là các em phải đọc trơn, đọc thành thạo, đọc đúng rõ ràng, rành mạch diễn cảm. Học sinh luôn có ý thức đọc đúng đọc hay.
Để học sinh đọc đúng:
Giáo viên đọc mẫu phải đúng, chuẩn xác
Ở lứa tuổi tiểu học, các em thường “bắt chước” thầy cô của mình từ cách đi đứng, ăn nói…Vì vậy giáo viên cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai sẽ dần dần được khắc phục. Do đó đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, chuẩn, đọc hay để có sức cuốn hút các em vì vậy bài nào tôi cũng luyện đọc trước.
Thái độ sư phạm đúng đắn của người giáo viên là sự hướng dẫn tận tình, đặc biệt là động viên tinh thần, thương yêu giúp đỡ học sinh để các em có hứng thú rèn phát âm đúng. Mặt khác, vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng và khả năng ứng đối nhanh nhạy, thông minh của giáo viên, chọn phương pháp sửa phát âm sai cho học sinh sao cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại của việc rèn kỹ năng nói sao cho chuẩn.
Giáo viên cần rèn luyện kĩ năng phát âm chuẩn cho học sinh ngay từ chữ cái đầu tiên. Muốn học sinh phát âm chuẩn trước hết giáo viên phải phát âm chuẩn, phải biết cách lắng nghe và quan sát cách phát âm của từng học sinh để nhanh chóng nhận ra lỗi phát âm của các em do đâu. Từ đó giáo viên lập kế hoạch hướng dẫn cho các em phát âm theo mẫu. Giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh tự quan sát và lắng nghe lời đọc của bạn. Cho học sinh tự nêu lỗi phát âm của mình. Sau đó giáo viên hướng dẫn cách phát âm của chữ em phát âm chưa đúng và nghe cô đọc mẫu. Từ đó các em phát âm lại theo âm chuẩn thật chính xác.
Khi đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn cho các em kết hợp cả kỹ năng nghe và nhìn (nghe cô phát âm, quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Nếu học sinh chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì sẽ không đạt hiệu quả cao.
Luyện phát âm đúng âm, vần, tiếng, từ: là yêu cầu đầu tiên đối với khả năng đọc đồng thời rèn luyện ngữ âm cho học sinh. Lớp tôi thường sai:
Phụ âm đầu: ch/tr, s/x, th-h
VD: “cây tre” đọc thành “cây che”, “con thỏ” đọc thành “con hỏ”, “khỏe mạnh” đọc thành “phẻ mạnh”.
Vần: uê/ê; uôn/uông
VD: “Xum xuê” đọc thành “xum xê”, “luôn luôn” đọc thành “luông luông”
Dấu thanh: thanh hỏi, thanh ngã
VD: “ngã ba” đọc thành “ngả ba”
Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi thường phân tích cho các em thấy sự khác biệt giữa cách phát âm đúng và cách phát âm sai mà học sinh mắc phải. Điều này cần hướng dẫn tỉ mỉ và có trực quan cho các em thấy được sự khác nhau của nó để phân biệt rõ khi đọc, phát âm cho đúng. Đặc biệt đối với học sinh yếu tôi còn sử dụng trực quan cụ thể để các em thấy được hệ thống cách phát âm như môi, răng, lưỡi (bộ máy phát âm) khi phát âm nó như thế nào? Cụ thể là tôi làm mẫu trực tiếp để học sinh quan sát và luyện cách phát âm.
VD: S: phải uốn lưỡi hơi thoát ra chân răng, đầu lưỡi
Còn X: hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng
Ngoài ra tôi còn ghi các từ khó cần luyện đọc bằng phấn màu lên bảng, bảng phụ. Tôi chỉ dùng phấn màu ghi các âm hoặc vần khó, học sinh hay sai để làm nổi bật các âm, vần đó trong các từ được đọc. Các em được nhìn bằng mắt, được tập phát âm bằng miệng, được nghe bằng tai và có thể được viết bằng tay vào bảng con như vậy các em mới nhớ lâu và đọc đúng. Đồng thời tôi còn yêu cầu các em phân tích các từ có tiếng, vần mà các em hay đọc sai để các em nắm bắt rõ hơn.
Quan tâm rèn luyện cho các em mọi nơi, mọi lúc
Để học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn sửa sai cho các em trong môn Tiếng việt mà phải luôn theo dõi uốn nắn cho các em trong cả các môn học khác, trong các hoạt động tập thể, vui chơi,… nhất là trong lúc vui chơi các em thường nói tự nhiên nhất nên dễ phát hiện ra cái sai của các em, vì vậy tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em để phát hiện, chỉnh sửa những lỗi sai đó giúp các em có thói quen phát âm chuẩn, chính xác.
Tuyên dương, khuyến khích học sinh
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết hợp với tuyên dương động viên các em, từ đó các em sẽ hứng thú, vui vẻ ham thích đọc, đó còn là động lực giúp các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi phát âm mà các em mắc phải. Khi các em tiến bộ, tôi cũng dùng lời động viên để khuyến khích các em, tạo không khí thoải mái cho các em.
VD: “Em đã phát âm đúng. Hãy tiếp tục như thế em nhé!” hoặc “Em đã đọc tốt hơn rồi đấy. Cố gắng thêm tí nữa em nhé!”
Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
Học sinh phát âm sai do hệ thống phát âm chưa hoàn chỉnh, do thói quen, do sử dụng từ ngữ địa phương. Vì vậy trong mỗi bài dạy khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ, cho các em luyện đọc nhiều lần, giúp các em tránh phát âm sai. Đồng thời giáo viên cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện luyện phát âm ở nhà. Nhắc nhở phụ huynh chú ý tới lời nói cách phát âm của mọi người trong gia đình. Giáo viên giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên để phát âm đúng. Động viên phụ huynh mua cho học sinh những cuốn truyện tranh có nhiều phụ âm mà học sinh đọc sai hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe hoặc cho các em kể lại câu chuyện rồi chỉnh sửa phát âm cho các em.
Giải pháp 2: Thường xuyên ôn âm, vần cho học sinh.
Để đọc tốt các em phải nhớ được các âm, vần đã đọc.
Đối với âm tôi thấy đa số các em đều không nhớ kỹ cách đọc, viết các âm ghép. Cho nên vào các tiết buổi chiều, tôi cho các em sắp xếp các âm có âm “h” đứng sau thành một nhóm để các em dễ phân biệt sự giống và khác nhau của các âm đó.
VD: c/ch, n/nh, t/th, k/kh, g/gh, p/ph, ng/ngh
Sau khi cho các em đọc tôi giúp các em nhớ các âm ghép bằng cách cho viết bảng con đưa vào ngữ cảnh: Tôi đưa hình ảnh hoặc nêu tên gọi các con vật, đồ vật gần gũi, thân quen với các em.
VD: ch(chó), nh(nhà), th(thỏ), kh(khỉ), gh(ghế), ph(phở), ngh(nghệ), ng(ngủ), gi(giỏ), tr(tre)
Đối với phần vần: Trong tiết buổi chiều để kiểm tra mức độ nắm bài của các em, tôi thường cho các em tự tìm tiếng, từ có vần mới học, khuyến khích những em yếu nêu tiếng, từ, và chỉ ra vần đã học trong bài. Sau đó cho các em viết vào bảng con những tiếng, từ vừa tìm được.
VD: Bài oa – oe
Từ, tiếng trong bài có vần oa: hoa, khoa, hòa.
Ngoài bài: lòa xòa, tàu hỏa, chìa khóa, khóa học, tòa nhà, xóa bảng, cái loa…
Từ tiếng trong bài có vần oe: xòe, chích chòe, khỏe, khoe
Ngoài bài: tròn xoe, lóe sáng, loe…
Đồng thời để củng cố và khắc sâu các âm, vần đã học cho học sinh, hằng ngày tôi thường cho các em đọc bảng âm, vần nhất là những học sinh yếu cho các em đọc nhiều lần không theo thứ tự để giúp các em nhớ được một cách chắc chắn. Ngoài bảng âm, vần ở lớp, tôi còn in cho các em yếu một bản để đọc ở nhà. Vì để đọc được tốt trước hết các em phải nhớ được bảng âm, vần một cách chắc chắn.
Đối với đọc câu ứng dụng: vào tiết buổi chiều tôi phân loại cho các em đọc.
Học sinh khá giỏi: Đọc câu ứng dụng ngoài bài
Học sinh trung bình: Đọc câu ứng dụng trong bài
Học sinh yếu: Đọc âm, vần, từ khóa trong bài
VD: Bài: oa – oe
Học sinh khá giỏi đọc câu ứng dụng ngoài bài.
Ngày mùng tám tháng ba
Chúng em đi hái hoa
Mang về tặng cô giáo
Đóa hoa của em đây.
Học sinh trung bình đọc câu ứng dụng trong bài.
Hoa ban xòe cánh trắng
Lan tươi màu nắng vàng
Cành hồng khoe nụ thắm
Bay làn hương dịu dàng
Học sinh yếu đọc vần, từ khóa trong bài.
Oa- họa- họa sĩ
Oe – xòe – múa xòe
Sách giáo khoa – hòa bình
Chích chòe – mạnh khỏe
Đối với các bài ôn tập: Sau khi lập được bảng âm và vần đã học tôi thường xuyên sử dụng phương pháp trò chơi để ôn lại bài nhằm tạo hứng thú cho các em, tránh nhàm chán như trò chơi: Xe lửa, Đố bạn, Truyền thư, Truyền banh…
VD: Bài 90: Ôn tập
Sau khi lập bảng vần cho học sinh đọc: ap, ăp, âp, op, ôp, ơp, up, ep, êp, ip, iêp, ươp. Tôi tổ chức trò chơi “Xe lửa”.
Cách chơi: Bạn đầu tiên đọc đúng bảng vần và sẽ đi vòng quanh lớp, cả lớp cùng hát và khi dừng hát bạn đó sẽ dừng lại và mời một bạn đọc bảng vần. Nếu bạn được mời đọc đúng thì mời lên làm đầu tàu, đọc sai sẽ mời một bạn khác và đoàn tàu lại đi xung quanh lớp, cả lớp cùng hát. Cứ như vậy đoàn tàu được nối dài.
Giải pháp 3: Xây dựng đôi bạn cùng tiến
Giữa học kỳ I, tôi tiến hành xây dựng cho lớp “Đôi bạn cùng tiến”: Bạn giỏi kèm bạn yếu, bạn giỏi sẽ dò bài cho bạn yếu vào đầu giờ học và đầu giờ buổi chiều. Từ những điều học sinh giỏi tiếp thu được các em sẽ ghi nhớ rất sâu và truyền thụ lại cho bạn một cách dễ tiếp thu hơn. Đồng thời khi bạn giỏi kèm mình cũng khích lệ các em yếu phải cố gắng học để không thua bạn.
Tôi thường xuyên kiểm tra việc dò bài của các em. Thời gian đầu tôi theo sát từng cặp, quan sát để kịp thời uốn nắn, hướng dẫn cho các em. Tôi sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để học sinh giỏi thực hiện nhiệm vụ một cách dễ dàng đưa ra tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm.
VD: Nhóm học sinh chưa nhớ âm, vần thì sau một tuần nhớ được 6 âm hoặc 6 vần. Nhóm còn đánh vần quá chậm thì tốc độ đánh vần sẽ nhanh hơn một chút. Nhóm đánh vần nhanh thì sẽ đọc trơn những từ, cụm từ.
Cuối tháng tôi ra đề kiểm tra xem các em tiến bộ đến mức nào. Tôi tiếp tục rèn để các em nắm chắc hơn. Đồng thời, tôi thường xuyên động viên, khuyến khích và tuyên dương những đôi bạn làm việc tích cực và có tiến bộ.
Giải pháp 4: Rèn cho học sinh lòng yêu sách và ham thích đọc sách
Khi các em thích đọc sách thì các em dần dần nâng cao kỹ năng đọc, giúp các em đọc tốt hơn, trôi chảy và lưu loát hơn.
Trẻ sáu tuổi rất hiếu động đa số các em chỉ thích chơi game, xem tivi, truyện tranh nhiều màu sắc, rất ít trẻ thích đọc sách. Vì vậy tôi giới thiệu cho các em các loại sách chữ, có hình ảnh, có nội dung cổ tích, truyện tranh lành mạnh, báo nhi đồng…
Xây dựng “ Thư viện vui” của lớp: Các em sẽ tự sắp xếp các loại sách do các em mang vào, giáo viên chọn lựa nội dung phù hợp, đối với lớp Một chủ yếu là những quyển truyện tranh vui, truyện rèn thói quen tốt cho bé, truyện cổ tích… với màu sắc đẹp và hấp dẫn để thu hút các em. Các em có thể đọc vào đầu giờ học, giờ ra chơi, hoặc có thể mượn về nhà.
Kết hợp với Phụ huynh trang bị vài loại sách phù hợp với các em để các em đọc và giải trí ở nhà. Đồng thời thường xuyên kiểm tra việc đọc của các em. Do học sinh lớp một các em mới bắt đầu học chữ, giáo viên nhờ phụ huynh cho học sinh nhận diện chữ trong những cuốn truyện mà các em thích. Các em vừa học, vừa chơi từ đó sẽ dần dần khơi gợi được lòng say mê đọc sách.
VD: Học sinh học âm “ch” phụ huynh yêu cầu học sinh tìm tiếng có âm đó trong một câu, một đoạn trong truyện, báo…
Khi hết học kỳ I, các em đã học gần hết bảng vần:
Đối với học sinh khá giỏi: Các em đã đọc trôi chảy không đánh vần hoặc đánh vần nhanh, tôi khuyến khích các em đọc các câu truyện ngắn có ý nghĩa giáo dục, những câu truyện cổ tích, báo nhi đồng, báo ngôi sao nhỏ,… tôi nhờ phụ huynh lắng nghe các em đọc và hỏi một vài câu hỏi về nội dung câu truyện hoặc kể lại nội dung câu truyện và ở lớp trong giờ sinh hoạt tập thể tôi sẽ cho những em đó lên kể cho lớp nghe.
Đối với học sinh trung bình yếu các em còn quên âm, vần đọc còn đánh vần. Tôi nhờ phụ huynh cho các em chọn những câu truyện các em thích, cho các em đánh vần. Đồng thời khuyến khích động viên các em đọc trơn từ, câu. Phụ huynh ngồi đọc cùng các em để điều chỉnh các lỗi sai cho các em.
Kết hợp với phụ huynh thường xuyên động viên, khuyến khích các em để các em ham thích đọc nhất là đọc sách, từ đó dần dần nâng cao khả năng đọc, khả năng cảm thụ văn học.
Giải pháp 5: Nêu gương và khen thưởng
Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn HĐTQ lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện cha mẹ HS về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:
Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1 HS đạt điểm 10 mỗi môn.
Tặng một phần quà cho HS đạt giải của các phong trào nhà trường tổ chức.
Sau mỗi tuần thi đua, Chủ tịch HĐTQ đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm. Sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.
Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo quy ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại (nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ…)
Đặc biệt chú ý đến HS chậm trong học nhưng có tiến bộ thì tổ trưởng các tổ đề nghị Ban thi đua lớp tuyên dương và khen thưởng.
Ngoài ra, lớp tôi còn tổ chức sinh nhật cho các em theo tháng để tạo không khí vui vẻ và thân thiện khi các em tới trường.
Biện pháp tác động giáo dục
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng… để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc.
Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với một học sinh đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh
Sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh trung bình, yếu, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
Phần học các nét cơ bản
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi: Nét sổ thẳng, Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên: Nét xiên phải, Nét xiên trái
Nhóm 2: Nét móc: Nét móc trên, Nét móc dưới, Nét móc hai đầu
Nhóm 3: Nét cong: Nét cong hở phải, Nét cong hở trái, Nét cong kín
Nhóm 4: Nét khuyết: Nét khuyết trên, Nét khuyết dưới, Nét thắt
Phần học âm
Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
Để học sinh phát âm đúng, hạn chế nói ngọng chúng tôi cho luyện theo cặp theo nhóm ngay trong tiết dạy âm. Cho thi nói nhanh tiếng có âm mà em đó nói ngọng. Với lòng nhiệt tình giảng dạy, tận tâm với nghề tôi đã giúp học trò của mình dần dần phát âm đúng, đọc bài hay.
VD: Âm a, g
Âm g gồm 2 nét: Nét cong kín và nét khuyết dưới. Nét cong kín nằm bên trái và nét khuyết dưới nằm bên phải.
Âm a cũng có 2 nét: Nét cong kín và nét cong phải. Nét cong kín nằm bên trái và nét móc ngược nằm bên bên phải.
Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 4 âm sau:
VD:
Âm d: gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Âm này đọc là: “ dờ”
Âm b: gồm 2 nét: Nét cong kín nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái. Âm này đọc là: “bờ”.
Sang phần âm ghép (chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm ghép h đứng sau thành một nhóm gồm có ch – c, nh – n, th – t, kh – k, gh – g, ph – p, ngh – ng để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Còn lại các âm gi, tr, qu, ng tôi cho học kỹ về cấu tạo.
Phân từng cặp: ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết chính tả.
Sang phần âm ghép (chữ có hai âm ghép lại với nhau) đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các bài ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm.
Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ… từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh.
Phần học vần
Phần tập đọc
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. Học sinh khá – giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (Sách giáo khoa Tiếng Việt 1)
1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ – ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Hs: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: Trường Em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ – ngờ – ương, ương.
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ – ương – trương- huyền – trường, trường
Sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
Rèn đọc từ – cụm từ cho chính xác.
Ở mỗi địa phương, do đặc điểm phương ngữ nên có nhiều em phát âm theo tiếng địa phương, phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả hoặc khiến người nghe hiểu sai ý nghĩa của từ, hay nội dung văn bản khi đọc. Mục đích của rèn đọc từ, cụm từ là nhằm luyện sửa phát âm sai. Rèn cho học sinh đọc đúng chính âm, phân biệt với cách đọc dễ lẫn (do đặc điểm phương ngữ). Vì vậy tôi cần xem trước văn bản để chọn ra những từ ngữ mà nhiều em trong lớp mình hay phát âm sai để rèn đọc ngay từ phần luyện đọc từ khó, không nhất thiết phải chọn những từ ngữ theo như hướng dẫn trong sách giáo khoa.
Tôi đưa các từ để luyện đọc: lợn quay, nông dân, giãy nảy.
Từ nông dân – một số học sinh đọc là lông dân
Từ giãy nảy – một số học sinh đọc là giáy nảy hoặc giáy lảy
Khi học sinh đọc như vậy tôi sẽ đọc mẫu và cho học sinh đọc lại 2-3 lần nếu học sinh vẫn đọc sai tôi sẽ phân tích cho học sinh cách đọc.
Ví dụ:
Từ: lợn quay tiếng lợn có âm đầu là l, khi đọc đầu lưỡi đặt ở chân răng hàm trên, uốn đầu lưỡi cong lên, bật mạnh và từ từ hạ lưỡi xuống.
Từ: nông dân tiếng nông có âm đầu là n, khi đọc đầu lưỡi đặt ở chân răng hàm trên vòm cứng, miệng hơi mở và bật nhẹ đầu lưỡi xuống.
Từ: giãy nảy tiếng giãy có dấu thanh ngã các em cần chú ý phân biệt với tiếng giáy có thanh sắc. Ta tách tiếng “giãy” thành 2 tiếng “giạy” và tiếng “ý” sau đó luyện phát âm 2 tiếng này theo tốc độ tăng dần.
Khi các em đọc tôi luôn chú ý lắng nghe để phát hiện kịp thời và sửa triệt để cho những em đọc sai, đọc ngọng.
Những phương tiện dạy học
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu.
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
- Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .
- Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.
Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật, tranh ảnh tự nhiên, hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu.
Ví dụ: Khi dạy học sinh học âm l, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em “bắt chước” phát âm mới đúng được.
Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: “Chữ này là chữ gì?” (chữ a, o, b, c, d…)
“Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?” (chờ – anh – chanh).
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
Phương pháp quan sát động viên khen thưởng học sinh
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh giỏi – khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như ở nhà”. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi (nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú và cố gắng hơn.
Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học, qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em yếu để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi (trong cùng bàn) để học sinh yếu đọc theo học sinh giỏi, và học sinh yếu cũng được luyện tập nhiều hơn.
Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh trung bình, yếu để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đùng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh khá, giỏi) đọc cho hai học sinh yếu chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi.
Phương pháp nhận xét nêu gương
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
VD: Bạn Thy bạn Trân đọc giỏi, học giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn: đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi đã cùng đọc với các bạn nhỏ trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng vv…
Kết quả
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một. Tôi thấy kỹ năng đọc của các em học sinh tiến bộ hẳn lên.
Năm học 2020 – 2021: Số học sinh chưa hoàn thành chương trình giảm dần trong năm học. Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của cả thầy và trò trong quá trình rèn luyện.
Bài học kinh nghiệm
Rèn kỹ năng đọc cho học sinh là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài vv… Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ… để khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.
Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp Một có kết quả cao, giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giới thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập.
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Qua những biện pháp đã được thực hiện và đối chiếu với điều kiện thực tế ở nhà trường, bản thân tôi thấy sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng trong tất cả các khối lớp trong các nhà trường Tiểu học. Tuy nhiên vận dụng như thế nào để đạt được hiệu quả thì chúng ta cần vận dụng sao cho phù hợp với đặc điểm của học sinh từng lớp, từng đơn vị trường, từng địa phương và vùng miền khác nhau sao cho phù hợp.
Để các em học tốt thì các em phải đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu… giáo viên phải thường xuyên ôn lại bảng âm, vần để các em khắc sâu, nhớ một cách chắc chắn.
Cần phát huy luyện đọc theo cặp, theo nhóm để học sinh luyện tập lẫn nhau.
Giáo viên cần phải thương yêu, gần gũi giúp đỡ học sinh, luôn quan tâm tìm hiểu xem các em gặp phải khó khăn gì trong cách đọc, cách phát âm để từ đó khắc phục những khó khăn các em vướng mắc.
Việc rèn cho học sinh có thói quen đọc trước ở nhà là một việc làm cần thiết. Các em chuẩn bị bài ở nhà tốt thì đến lớp tiếp thu bài nhanh, đọc tốt hơn.
Giáo viên kết hợp với phụ huynh kiên trì hướng dẫn, uốn nắn, động viên, khuyến khích các em đọc sách, báo, truyện phù hợp lứa tuổi học sinh.
Kiến nghị
Đối với nhà trường: cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn Tiếng Việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học, và yêu thích môn học.
Về phía học sinh: Có đầy đủ đồ dung học tập. Có ý thức tự giác trong học tập.
Trên đây là một số kiến nghị của bản thân. Rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện để thầy và trò lớp Một dạy và học tốt hơn.
Trên đây là Mẫu sáng kiến kinh nghiệm lớp 1: Rèn đọc đúng. Mọi đóng góp ý kiến xin vui lòng bình luận bên dưới bài viết. Tham khảo thêm : Phương pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2